Có lẽ trong
cuộc đời của mỗi con người, dấu ấn tuổi thơ bao giờ cũng đậm nét & chiếm
một phần rất lớn trong bộ nhớ không phải là không có giới hạn mà tạo hoá đã ban
cho.
Tôi cũng vậy!
Dù qua bao biến đổi của cuộc sống vốn vận động không ngừng, trong tôi những kỉ
niệm tuổi thơ luôn đau đáu, và ngấm ngầm hẹn ước ngày trở về. Có phải đó là một
tuổi thơ ám ảnh vì đi qua chiến tranh, vì xa ba má khi chưa đủ ấm áp để chống
chọi với giá lạnh của tự lực, tự giải quyết những nỗi đời muôn mặt ở một nơi
hoàn toàn xa lạ kể từ khi tôi chào đời. Kí ức sơ tán trở đi trở lại trong tôi
đến mức tôi muốn chạy về nơi ấy dù chỉ một chốc lát để nhìn thấy hình hài cái ngày xưa đầy ngỡ ngàng, và dần dà đã đi
vào một phần đời của tôi nó như thế nào, có trùng với hồi tưởng
của tôi không.
Và tôi đã
thực hiện bằng được ước mơ của mình.
Những ngày
cuối của năm Ất mùi, 2015 đang trôi, tôi vùng ra đi. Không hiểu sao bao nhiêu
miền quê tôi đã đi qua mấy chục năm trời mà tôi vẫn nhớ như in cái xóm Thịnh
Đa, thôn 1, xã Quảng Bị, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây đến thế! Có phải vì nơi
ấy tôi đã rời tay ba má tôi để ở lại với những người chưa hề quen biết với một
nỗi bơ vơ, sợ hãi? Không hẳn là thế! Hình như chiến tranh làm cho lứa tuổi của
những người như tôi bấy giờ phải biết chấp nhận thực tế một cách dứt khoát như
người ta lựa chọn giữa sự sống với cái chết vậy thôi. Với lại còn quá nhỏ nên
thấy sự lạ lẫm còn khêu gợi tò mò khám phá hơn là níu giữ cái quen thuộc hàng
ngày. Nên tôi cùng em đã ở lại tỉnh bơ, chỉ đêm mới nhớ cồn cào tổ ấm ở Hà Nội,
nhớ ba má, chị em,..nhớ mùa đông với tiếng rao đêm da diết dội vào chăn ấm.
Bốn mươi năm có lẻ, lần tìm về chốn xưa,
tôi hồi hộp hỏi đường. Gặp ai tôi cũng tả lại nơi tôi từng sống như thể tôi vừa
đi vắng đây thôi. Tôi tìm những người tuổi cao để hỏi . Vậy mà tôi cũng gặp
phải vài sự ú ớ suýt làm tôi thất vọng! May quá có một bác đi lướt qua nghe tôi
hỏi đã chỉ cho tôi một cách tận tình. Thì ra bác là cựu chiến binh, cùng sinh
hoạt Hội CCB với con bà chủ nhà tôi ở - người vắng nhà suốt thời gian tôi sơ
tán, chỉ nghe nhắc đến tên trong thương nhớ của bà.
Tôi cứ đi tìm
con đường lát những tảng đá vuông vức màu xanh lơ với nhưng chỗ mòn lõm mà tôi
đặt chân trần những hôm trời mưa dể nghe cái trơn nhẵn xoa vào lòng bàn chân.
Nhưng nó đã biến mất theo thời gian,. Hay nói cách khác là nó bị bê tông hoá
một cách tàn nhẫn! Vì tôi quá lớn để đặt mình trên con đường làng hay vì người
ta cơi nới nhà cửa mà cái ngõ xóm quê xưa giờ nhỏ hẳn đi? Tôi thấy nó ngoằn
ngoèo y như xóm quê ngoại tôi ở Sa Huỳnh, cư dân sinh sôi mà quỹ đất không đẻ
ra thêm. Tôi định vị cái giếng làng, nơi tôi từng cùng em è cổ ra khiêng nửa
thùng nước mà cứ lặc lè chạm vào cổ chân mãi không về tới nhà. Vậy mà tôi không
tìm thấy lối vào nhà bà Kim (Gọi theo tên con trai trưởng của bà). Tôi cứ đi
tìm cái cổng sát vách làm bằng gạch tổ ong. Rồi may mắn cháu ngoại của bà đã
dẫn tôi đi. Bác Kim, người con trai duy nhất của bà chủ nhà, đi bộ đội suốt
những năm chúng tôi sơ tán về nhà bác, tiếp đón chúng tôi. Hồi ấy vợ của bác- “Mợ
Cả”, cách gọi của chúng tôi hồi ấy, là một người con dâu khoẻ mạnh, chăm chỉ
hiền lành, lúc nào cũng cười với hàm răng nhuộm đen, giờ đã thành người thiên
cổ, tội nghiệp, để lại cho bác năm người con nay đã trưởng thành có gia đình
riêng . Bác Kim tiếp đón chúng tôi ( tôi về cùng mấy người bạn ở Hà Nội) rất
chân thành, đúng chất lính, từ tốn, ân cần. Tôi thấy đôi mắt bác nhìn xa xăm
lắm, phảng phất một nỗi buồn mà tôi cảm nhận nhưng không diễn đạt được. Bác tha
thiết mời chúng tôi ở lại ăn cơm với gia đình. Nhưng chưa sắp xếp được thời
gian, nên tôi xin bác thông cảm để lần khác. Tôi đi tìm lại hơi ấm nơi đây. Ban
thờ gia tiên của nhà bác Kim vẫn trang trọng như ngày mà chúng tôi ở đây. Ngày
ấy, mỗi khi nghe tiếng máy bay gầm rú, tiếng đạn bom réo rít, chúng tôi thường chui
xuống gầm ban thờ nương nhờ sự chở che của ông bà tiên tổ gia chủ với một niềm
tin thành kính. Chiếc phản dành cho chị em tôi vẫn còn đây, chỉ khác vị trí
thôi. Bộ tràng kỉ, mà tối tối chúng tôi ngồi, rồi lấy bèo tây hơ lên ngòn đèn
dầu cho khô dẻo quắt lại, chẳng biết để làm gì. Tối nhớ cô Hồng, em bác Kim bảo
chúng tôi: đứa nào lau bóng đèn cho sáng sau này sẽ đẻ con da trắng. Thế là đứa
nào cũng tranh nhau lau( tất nhiên là sau khi chơi trò hơ bèo đến mức bóng ám
muội khói đen xì), mà giờ đẻ con cũng có trắng như tưởng tượng đâu! Tôi tiếc
những ngưỡng cửa gỗ nhà đã bị thời gian làm cho mục đi cùng những cánh cửa gỗ
mở bằng chốt bản lề gỗ, giờ thay cửa ra vào bằng vật liệu khác. Tôi như thấy
tuổi thơ tôi đã bị khuyết đi một phần! Nhìn ra hiên, chiếc giậu vẫn còn đó, y
như tôi vẫn đang giơ tay hứng những giọt nắng bên thềm lọt qua kẽ giậu năm xưa(
dù biết rằng nó phải được thay mới không ít lần với chừng ấy thời gian!). Tôi
xuống bếp, thấy chiếc chạn tre phủ bồ hóng mà lòng rưng rưng, nhớ đến hình ảnh
bác nồi đồng đánh nhau với chuột cống trong truyện của Tô Hoài. Đâu rồi tro bếp
đun từ rơm, ủ nồi cơm sau khi cạn nước ? Đâu rồi chiếc cối giã gạo bằng chân,
chúng tôi cùng mợ Cả đứng đếm nhịp mỗi khi mùa gặt rộn ràng ngày xưa? Chiếc côi
xay lúa cũng bị các công cụ công nghiệp đào thải giờ ở xó nào, tội nghiệp quá!
Mảnh sân ngày xưa thênh thang là thế, giờ sao nó lọt thỏm vậy? Tất nhiên chum
tương đội nón đứng trên sân sẽ không còn nữa nên tôi không kiếm tìm. Bể nước
mưa ngày ấy nó to làm sao, vang làm sao khi chúng tôi kiễng chân thò cổ vào hát
như đứng trước dàn âm thanh cho cả ngàn người nghe giờ sao cũng nhỏ hẳn đi? Kể
cả cái ao đứng bên này gọi sang bên kia nghe không rõ lời, vậy mà giờ nó cũng
khiêm tốn thu mình là chứng nhân của một thời lịch sử mà không ngạo nghễ như
trong hồi tưởng của tôi. Tôi chạy ra cổng làm bằng gạch tổ ong ,có mái che như
cổng làng, tôi chạnh nhớ những bước chân mình đã ra vào không biết bao nhiêu
lần ,giờ nó vẫn thân thương đón tôi quay về.
“Giá có ước
muốn cho thời gian trở lại..” như lời một bài hát, tôi ước sao mình bé lại như
xưa để thấy cảnh vật êm đềm, lớn lao, kì lạ như lần đầu bắt gặp.
Nhưng “Tâm
bất biến giữa dòng đời vạn biến”, tôi luôn mang theo những kỉ niệm trong trẻo
ấy suốt hành trình cuộc sống mà tôi đã trải qua. Cho dù nó thay đổi theo qui
luật thời gian, thì trong kí ức tôi nó vẫn nguyên vẹn hình khối, sắc màu kỉ
niệm…Hình ảnh những người đi qua phần đời tôi mãi sống động đầy tình cảm bao
dung, thân thiện. Bà Kim ăn trầu và mặc váy đen, chít khăn mỏ quạ, từng chỉ cho tôi cách cào lúa phơi trên sân, cách
đẩy rơm vào bếp liên tục như thế nào để không bị tắt.. Cô Hồng luôn bênh chị em
tôi khi bị chị em đứa cùng trú ở đây bắt nạt. Tính cô rất thẳng thắn. Và cô rất
nhanh nhẹn trong công việc. Những bài học thuộc lòng cô đọc mỗi đêm theo tôi
đến khi tôi làm người giáo viên, tôi đã giảng lại các bài thơ ấy với một cảm
xúc dâng tràn: Bầm ơi, Việt Bắc,...Cô vẫn thấp và rắn rỏi như trong trí nhớ của
tôi. Giờ cô đã lên chức bà và ở nơi khác, cô tranh thủ về gặp tôi ở mái nhà
xưa. Tôi thương mợ Cả lắm. Ngày ấy mợ Cả
đi làm đồng về hay bắt con châu chấu, con muồm muỗm treo trên đòn gánh rồi
nướng cho chúng tôi ăn. Mợ hay quấn xà cạp và đeo lọ vôi để chống đỉa ( tôi sợ
con này lắm) mỗi khi đi cấy hay làm cỏ lúa. Có những mùa gặt phải đập vào đêm
trăng, chúng tôi theo mợ ra sân kho Hợp tác xã, mợ sợ chúng tôi bị xót lúa, cứ
dặn đừng leo vào đống lúa. Có lần mợ cho chúng tôi những bắp ngô mới hái, nướng lên dẻo ngọt vô cùng. Tôi nhớ mợ sinh
bé gái đầu lòng, hỏi chúng tôi thích tên gì. Tuổi nhỏ ngây thơ, chúng tôi nói
mợ đặt tên Thuỷ- Bích Thuỷ. Vậy là mợ đặt tên là Thuỷ. Giờ em đã có gia đình,
nhưng vừa rồi tôi về chưa gặp em. Tôi gặp cô Thị là con của bà Kim giờ đã hơn
tám mươi với cái Thơm, cùng trang lứa với tôi. Hồi ấy chúng tôi hay ra nhà cô
Thị quấy quả, bứt cây hái quả, cô chỉ cười thôi. Có củ khoai, củ sắn, hay bất
cứ thức ăn gì cô cũng cho chúng tôi. Chúng tôi đến nhà cô như về nhà mình, lục
lọi, càn quét kinh hồn, mà cấm có bao giờ thấy cô phàn nàn. Cô còn bảo chúng
tôi cứ ra nhà cô chơi cho vui cửa vui nhà ( cùng với đàn con của cô). Cái Thơm
giờ đã là bà nội Thơm, vẫn hiền lành, hay xấu hổ như xưa. Mỗi lần thấy tụi tôi
ào vào nhà nó, nó toàn nấp sau cái cột nhà nhìn mà không nói câu nào. Chỉ khi
chúng tôi vào bếp lấy rơm nướng cái gì đó, nó mới bảo “khéo cháy nhà đấy, dập
bớt lửa đi!”. Hồi ấy nó bị bệnh đi tiểu ra màu như nước vo gạo. Má tôi đưa ra
bệnh viện Xanh pôn Hà Nội, nơi má tôi làm việc, để chữa trị. Ngày ấy có chuyên
gia Cu Ba hội chẩn và kết luận nó bị “Đái ra dưỡng chấp”. Họ điều trị dứt luôn.
Cả gia đình cô Thị và gia đình tôi đều vui mừng không tả xiết. Giờ nghe đâu nó
đang có dấu hiệu tái phát, tôi tin là khoa học bây giờ sẽ giúp nó chữa lành !
Hình ảnh làng
quê, cảnh vật cuộc sống, con người tôi đã gửi gắm một phần đời của mình sẽ được
lưu lại mãi trong tôi.
Hành trình
trở về chốn xưa của tôi phải đi một quãng đường gần nửa thế kỉ. Rồi hôm nay cũng
sẽ thành kí ức của ngày mai. Tôi trân quý những gì đã qua như một cách hướng đến ngày mai với điểm tựa vững chãi cho tâm hồn, có
gì gọi là quá đa cảm chăng?
( Tháng 2/2016)